Điều 171 Bộ luật hình sự

Cướp giật tài sản là hành vi ngang nhiên chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác một cách nhanh chóng và bất ngờ. Người thực hiện hành vi cướp giật tài sản của người khác sẽ bị xử lý như thế nào theo quy định của Điều 171 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017? Sau đây, bài viết của Công ty Luật Rong Ba sẽ trình bày và phân tích dấu hiệu pháp lý về tội cướp giật tài sản tại Điều 171 Bộ Luật hình sự.

Cướp giật tài sản là gì?

Cướp giật tài sản là hành vi lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc có thể tự mình tạo ra những sơ hở để thực hiện hành vi công khai chiếm đoạt tài sản đang rồi nhanh chóng tẩu thoát. Quyền sở hữu đối với tài sản của cá nhân, tổ chức là một trong những khách thể được Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 bảo vệ. Vì vậy mà những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu trên sẽ bị xem là phạm tội khi cấu thành các yếu tố của tội phạm theo quy định của pháp luật.

Điều 171 Bộ Luật hình sự
Điều 171 Bộ Luật hình sự

Đặc điểm nổi bật của tội cướp giật tài sản là người phạm tội lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản để nhanh chóng giật lấy tài sản mà người quản lý khó có thể giữ được hoặc giằng lại được. Tính chất công khai, trắng trợn của hành vi cướp giật tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội không giấu diếm hành vi phạm tội của mình, trước, trong hoặc ngay sau khi bị mất tài sản người bị hại biết ngay người giật tài sản của mình.

Quy định về Tội cướp giật tài sản:

Tội cướp giật tài sản được quy định tại điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

Điều 171. Tội cướp giật tài sản

1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

i) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;

c) Làm chết người;

d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5, Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.”

Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội cướp giật tài sản là những người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; và đạt độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật.

Những người từ đủ 16 tuổi trở lên; và có năng lực trách nhiệm hình sự sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cướp giật tài sản. Những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; có năng lực trách nhiệm hình sự chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cướp giật tài sản; thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2,3,4 Điều 171 Bộ Luật Hình sự.

Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội cướp giật tài sản; là quyền sở hữu tài sản và quyền nhân thân (tính mạng, sức khỏe) của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ.

Đối tượng tác động của tội phạm là tài sản. Nhưng không phải mọi loại tài sản đều là đối tượng tác động của tội phạm này. Chỉ có vật thực, tiền, giấy tờ có giá mới là đối tượng tác động của tội cướp giật tài sản.

Ngoài ra tội phạm này còn xâm phạm đến quyền sống, quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người. Vì vậy nếu trong quá trình cướp giật tài sản, nếu người phạm tội gây thiệt hại về tính mạng, súc khỏe của nạn nhân thì không xác định tội phạm độc lập mà cho đó là tình tiết tăng nặng của tội phạm này.

Mặt khách quan: Mặt khách quan của tội này thể hiện qua dấu hiệu sau:

Có hành vi chiếm đoạt tài sản một cách công khai và nhanh chóng. Được hiểu là người phạm tội không cần che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác mà thực hiện trước mặt mọi người một cách táo bạo bất ngờ và dứt khoát trong một thời gian rất ngắn.

Để thực hiện được hành vi này người phạm tội không sử dụng vũ lực (tuy một số trường hợp có sử dụng sức mạnh như đạp, xô cho bị hại té để cướp), cũng không đe dọa sử dụng vũ lực hay uy hiếp tinh thần của người bị hại như trong tội cướp tài sản mà chỉ dựa vào sự nhanh nhẹn của bản thân và sự sơ hở của người bị hại, hay trường hợp người bị hại không đủ khả năng bảo vệ tài sản (chẳng hạn như trẻ em, người già, phụ nữ…) để giật lấy tài sản của họ và tẩu thoát.

Đặc trưng của hành vi chiếm đoạt của tội phạm này là được thực hiện một cách bất ngờ và nhanh chóng (trong một khoản thời gian rất ngắn, thường chỉ trong một vài giây là đã thực hiện xong hành vi chiếm đoạt) làm cho người bị hại không kịp ứng phó. Đồng thời ngay sau khi đoạt được tài sản từ tay người bị hại, người phạm tội cũng nhanh chóng tẩu thoát nhằm tránh khỏi việc truy đuổi của người bị hại. Thông thường thì người phạm tội có sử dụng phương tiện để thực hiện tội phạm (như dùng xe phân khối lớn để cướp giật…)

Đối tượng của hành vi cướp giật tài sản (tương tự như đối tượng của tội cướp tài sản). Tuy nhiên thông thường là nữ trang, tiền và các giấy tờ có giá trị như tiền, là những vật nhẹ, gọn, dễ lấy và cất giấu một cách dễ dàng.

Nhiều trường hợp người phạm tội cũng sử dụng thủ đoạn tinh vi để tạo sơ hở mất cảnh giác của chủ sở hữu tài sản, người quản lý tài sản để thực hiện hành vi cướp giật.

Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã giật được tài sản. Nếu không cướp giật được tài sản mà không phải do tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội, thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Định lượng tài sản chiếm đoạt không phải là yếu tố định tội mà chỉ là yếu tố định khung hình phạt.

Hậu quả và mối quan hệ nhân quả

Hậu quả của tội cướp giật tài sản trước hết là những thiệt hại về tài sản, ngoài ra còn có những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ hoặc những thiệt hại khác. mặc dù điều văn của điều luật không quy định, nhưng về lý luận tội cướp giật tài sản  là tội phạm có cấu thành vật chất, do đó, chỉ khi nào người phạm tội giật được tài sản thì tội phạm mới hoàn thành, nếu có hành giật nhưng chưa giật được tài sản thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Tội cướp giật tài sản là tội phạm nghiêm trọng nên nhà làm luật không quy định mức tài sản bị chiếm đoạt là dấu hiệu cấu thành tội phạm như đối với các tội khác như tội trộm cắp, tội công nhiên chiếm đoạt, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản… Do đó người phạm tội cướp giật tài sản có giá trị lớn hay chỉ có giá trị rất nhỏ ( hoa tai giả, dây chuyền giả) vần là phạm tội cướp giật tài sản. Tuy nhiên, nếu chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn thì thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của Điều 171 tuỳ theo giá trị tài sản bị chiếm đoạt.

Các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ hoặc các thiệt hại khác là những dấu hiệu định khung tăng nặng của tội cướp giật tài sản.

Mặt chủ quan

Đối với tội cướp giật tài sản, mặt chủ quan của tội phạm gồm dấu hiệu lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Trong đó lỗi của người phạm tội cướp giật tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Động cơ của tội cướp giật tài sản được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách cố ý. Mục đích của tội cướp giật tài sản là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội.

Hình phạt

Theo quy định tại khoản 1 điều 171 Bộ luật hình sự thì người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Đây là cấu  thành cơ bản của tội phạm này mà được xác định là tội nghiêm trọng.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 điều 171 Bộ luật hình sự thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Đây là các trường hợp cho thấy mức độ nguy hiểm cao hơn của hành vi so với trường hợp tại khoản 1 điều 171 bộ luật hình sự. Các trường hợp cụ thể bao gồm:

Có tổ chức;

Có tính chất chuyên nghiệp;

Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

Hành hung để tẩu thoát;

Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

Tái phạm nguy hiểm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp tại khoản 3 điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Các trường hợp đó là: Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh. Đây là tội đặc biệt nghiêm trọng.

Phạm tội mà thuộc Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên; làm chết người hoặc lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm theo quy định tại khoản 4 điều 171 Bộ luật hình sự.

Trên đây là toàn bộ tư vấn của Luật Rong Ba về tội cướp giật tài sản quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 . Nếu như bạn đang gặp phải khó khăn trong quá trình tìm hiểu về tội cướp giật tài sản quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 và những vấn đề pháp lý liên quan, hãy liên hệ Luật Rong Ba để được tư vấn miễn phí. Chúng tôi chuyên tư vấn các thủ tục pháp lý trọn gói, chất lượng, uy tín mà quý khách đang tìm kiếm.

Messenger
Zalo
Hotline
Gmail
Nhắn tin